Ngược dòng

31.7.08


Anh đã quen sắc đẹp em
như em quen trái tim anh
dưới ánh sáng nhạt,
mình thở dài
và thắp sáng cho nhau

có lần chúng ta thở
dưới biển khơi sâu thẳm
thở thật chậm
nhưng chân mình vẫn mắc trong nước cạn
không thể biến thành những cái đuôi

ta không thể bơi đi
mùa đông cũng đang thở
trong đêm, người nào mở cửa sổ
sẽ thấy đại dương
biến thành chậu nước

chuyến diễu hành vương giả
đi từ cây cầu
ngã xuống băng
hôn những bông tuyết lạnh
và bíu lấy bờ tường

một bờ tường rất ấm
bờ tường hoang phế, ngùn ngụt, rợp nắng
thật khó tin
đó chính là em

thật khó tin
nàng là em
đã từ nhiều năm trước
trên những tảng đá sáng màu
nàng là em
nàng đứng rất thấp
bầu trời chiếu trên mặt nàng
và những giọt mưa nhiều màu sắc
nhỏ xuống từng giọt
cây đàn ống đập lên bờ biển vắng
và anh cầu nguyện.

Thơ Cố Thành (dịch từ Against the Current, trong tập Nameless Flowers, Selected Poems of Gu Cheng, translated by Aaron Crippen)

Miền đất trong trẻo


mùa thu
có một đất nước màu xanh
che phủ đường đi là những com chim xanh lấp lánh
và những chiếc lá
những tờ tiền héo úa
phấp phới bay trên trời
con đường trước mặt sáng tươi
mặt trời hạ vành mũ xuống
con đường biến mất
đôi khi em nghe thấy tiếng rung
của những bông tuyết

ở nơi đấy, tấm biển xe của anh
tỏa sáng.

Thơ Cố Thành (dịch từ The Pure Land, trong tập Nameless Flowers, Selected Poems of Gu Cheng, translated by Aaron Crippen)

Mở rộng


Thành phố đang đào xới
trên đất ngoại ô nhớp nháp
nó cần như vậy.

Những công trình xây dựng mới
những con thằn lằn trì độn
đang nhòm về phía trước
trên giàn giáo, những chiếc sừng nhọn
sáng lập lòe.

Thành phố đang nhìn về phía trước.

Con chim bay ngang mặt trăng
con chim xám bay ngang mặt trăng.
những cái cây, bị đẽo hết vỏ,
sạch trơn,
nhợt nhạt sáng như vợ chồng mới cưới.
những cái cây cũ kỹ
cỏ xẹp mình dưới ánh nắng mặt trời
những túp lều gỗ lúp xúp
mọc lên nơi đây
không niềm vui
và gắng không nghĩ ngợi
tới kiếp sau của chúng.

dưới những cánh tay thép no tròn,
như con tôm hùm khuấy lên bọt nước,
là những bông hoa cuối cùng
của mùa xuân cuối cùng:
tím rụt rè
vàng sầu muộn.

tôi đang nhớ đến nụ hôn đầu.

Thơ Cố Thành (dịch từ Expansion, trong tập Nameless Flowers, Selected Poems of Gu Cheng, translated by Aaron Crippen)

Một trong những mùa xuân

30.7.08

Picture 200 by you.

Bên ngoài cửa sổ gỗ
Của tôi những luống cày
Con trâu
Và chiếc cày

Những tia sáng mặt trời
Chiếu lấp lánh qua hàng rào gỗ mỏng
Những cánh hoa xanh biếc
Bắt đầu uốn lượn

Giọt sương sợ hãi
Làm ướt cánh đồng ký ức
Bầy chim sẻ hoảng hốt
Nhìn chân trời xa xôi

Tôi sẽ làm việc
Chọn hạt giống từ giấc mơ
Để chúng lấp lóe trên tay
Và ném chúng xuống nước.

Thơ Cố Thành (Dịch từ One of My Springs, trong tập Nameless Flowers, Selected Poems of Gu Cheng”, translated by Aaron Crippen).

Tôi thở như cỏ xanh

Tôi thở như cỏ xanh
Trên bờ sông cao ngất,
Hố nước thẳm dưới chân
Đen như lưng cá mực.

Dòng sông khe khẽ lượn
Tới những đụn cát xa
Những gợn sóng mỏng mềm
Ru mặt trời ngủ yên

Cánh rừng xanh lung linh
Đánh dấu đường của gió
Những bông hoa bé nhỏ
Tím ngắt những vành khăn

Lũ kiến chở theo cát
Chẳng muộn phiền vì yêu
Những chú ong dễ dãi
Hát vì những bông hoa.

Tôi thở như cỏ xanh
Mơ cho tới mùa xuân.
Tôi mong mình sẽ hát
Để nụ cười không tắt

(Thơ Cố Thành dịch từ I Can Breathe Like the Green Grass, trong tập Nameless Flowers, Selected Poems of Gu Cheng, translated by Aaron Crippen).

Uống rượu

23.7.08


Chàng nhìn tôi, trao cho tôi cái đẹp
và tôi lấy nó của riêng mình.
Hạnh phúc, tôi nuốt một vì sao.

Tôi để chàng tạo ra tôi
từ phản ảnh bóng tôi trong mắt chàng.
Tôi nhảy, tôi nhảy
với đôi cánh bất chợt thênh thang.

Chiếc bàn là chiếc bàn, rượu là rượu
ở trong ly, và ly là ly
nằm trên bàn,
nhưng tôi là một bóng ma,
bóng ma không thể tin được,
bóng ma tới tận cội rễ.

Tôi nói với chàng điều chàng muốn nghe
- về những con kiến
chết bởi tình yêu
dưới chùm bồ công anh.
Tôi thề rằng nếu được vẩy rượu,
bông hồng bạch sẽ cất tiếng hát.

Tôi cười, và xoay khẽ đầu
như đang thử tạo vật mới sinh.
Tôi nhảy, tôi nhảy
với làn da kinh ngạc, trong vòng ôm
đã tạo ra tôi.

Eve sinh từ xương sườn
Venus hiện hình từ bọt biển
Minerva đến từ đầu của Zeus
Họ đều có thật hơn tôi.

Khi chàng không nhìn tôi,
tôi tìm kiếm bóng hình mình trên tường.
Tất cả những gì tôi thấy
là một chiếc đinh
trên đó từng có một bức tranh.


Drinking Wine
Wislaswa Szymborska
Translated from the Polish by Joanna Trzeciak

He looked at me, bestowing beauty,
and I took it for my own.
Happy, I swallowed a star.

I let him invent me
in the image of the reflection
in his eyes. I dance, I dance
in an abundance of sudden wings.

A table is a table, wine is wine
in a wineglass, which is a wineglass
and it stands standing on a table
but I am a phantasm,
a phantasm beyond belief,
a phantasm to the core.

I tell him what he wants to hear—
about ants dying of love
under a dandelion's constellation.
I swear that sprinkled with wine
a white rose will sing.

I laugh, and tilt my head
carefully, as if I were testing
an invention. I dance, I dance
in astounded skin, in the embrace
that creates me.

Eve from a rib, Venus from sea foam,
Minerva from the head of Jove
were much more real.

When he's not looking at me,
I search for my reflection
on the wall. All I see
is a nail on which a painting hung.


Drinking Wine

Wislawa Szymborska
translated by Grazýna Drabik and Sharon Olds

He looked, and gave me beauty,
and I took it as if mine.
Happy, I swallowed a star.

I allowed myself to be
invented in the likeness
of the reflection in his eyes.
I am dancing, dancing
in the flutter of sudden wings.

A table is a table,
wine is wine in a glass
that is just a glass and stands
standing on a table. While
I am imaginary
to the point of no belief,
imaginary
to the point of blood.

I am telling him
what he wants to hear: ants
dying of love under
the constellation of the dandelion.
I swear that a white rose,
sprinkled with wine, sings.

I am laughing, tilting
my head carefully
as if checking an invention.
I am dancing, dancing
in astonished skin, in
an embrace that creates me.

Eve from a rib, Venus from sea-foam,
Minerva from Jove’s head —
all were more real than I.

When he stops looking at me
I search for my reflection
on a wall. And I see only
a nail from which a picture
has been removed.

Không che đậy

21.7.08

Chúng ta ở đây, đôi tình nhân trn trung,
Đẹp trong mắt nhau- và thế là đủ-
Những chiếc lá trên mi mắt
Là tất cả những gì che đậy
Chúng ta nằm, giữa đêm thăm thẳm.

Nhưng chúng biết về hai ta, chúng biết,
Bốn góc tường, và lò sưởi kế bên
Bóng tối biết, chiếc bàn cũng biết
Cho dù chúng giữ lại lặng yên.

Những chiếc tách đều hiểu
Tại sao trà lại lạnh
Và ông già Swift biết
Sách ông đang để lật.

Ngay cả những con chim cũng biết:
Em thấy chúng viết trên bầu trời
Rõ ràng và lảnh lót
Cái tên em vẫn gọi anh.

Còn những cái cây? Anh hãy kể em nghe
Những lời chúng thì thào bất tận?
Ngọn gió cũng có thể biết
Nhưng vì sao gió biết vẫn là điều bí mật

Con bướm đêm ngoài rèm khiến chúng ta ngạc nhiên
Đôi cánh nó vẫy nhẹ. Anh hãy nhìn
Chặng đường bay lặng lẽ của nó
Uốn thành những đường viền bướng bỉnh

Có thể nó thấy những gì mắt chúng ta không thể nhìn
Bằng giác quan bẩm sinh loài côn trùng
Em không cảm thấy, anh cũng không thể biết
Liệu trái tim chúng mình có tỏa sáng trong đêm?


Openness

by Wislawa Szymborska
translated by Joanna Trzeciak

Here we are, naked lovers,
beautiful to each other—and that's enough.
The leaves of our eyelids our only covers,
we're lying amidst deep night.

But they know about us, they know,
the four corners, and the chairs nearby us.
Discerning shadows also know,
and even the table keeps quiet.

Our teacups know full well
why the tea is getting cold.
And old Swift can surely tell
that his book's been put on hold.

Even the birds are in the know:
I saw them writing in the sky
brazenly and openly
the very name I call you by.

The trees? Could you explain to me
their unrelenting whispering?
The wind may know, you say to me,
but how is just a mystery.

A moth surprised us through the blinds,
its wings in fuzzy flutter.
Its silent path—see how it winds
in a stubborn holding pattern.

Maybe it sees where our eyes fail
with an insect's inborn sharpness.
I never sensed, nor could you tell
that our hearts were aglow in the darkness.


Bản dịch khác của Phạm Thị Điệp Giang

Thế là chúng ta, đôi nhân tình trần truồng
đẹp với nhau – và thế là quá đủ
Những chiếc lá của hàng mi là những gì giấu che duy nhất
chúng ta đang nằm giữa đêm sâu

Nhưng chúng biết về hai ta, chúng biết
bốn góc tường này và những chiếc ghế ngay đây
Những chiếc bóng kia cũng biết
Và ngay cả chiếc bàn này cũng chẳng phơi bày

Những tách trà biết rõ hơn hết
tại sao nước trà kia ngày một lạnh
và cả già Swift cũng biết
cuốn sách ông đang lật giở ở đây

Rồi cả lũ chim kia cũng biết
Khi em nhìn chúng viết trên trời kia
Thật rõ ràng và vô cùng lảnh lót
Chính tên anh em thường gọi mỗi khi

Anh có thể nào giải thích về những hàng cây kia
về những tiếng thì thầm không nghỉ
Hãy nói em nghe, như gió kia cũng biết
Mà sao điều này vẫn còn là bí mật

Qua những tấm rèm, con bướm đêm làm ta ngạc nhiên
Đôi cánh của nó khẽ rung nhè nhẹ
Anh thấy không trong hành trình lặng lẽ
nó đã đập cánh kiên trì

Có thể nó thấy nơi mắt mình không thấy
bởi giác quan nhạy bén tự nhiên của côn trùng
em chưa từng cảm thấy và anh cũng không thể nào nói
rằng tim mình đã cháy đỏ trong đêm

Sau tình yêu

20.7.08

Anh ngắm âm nhạc bằng đôi mắt nhắm.
Nghe tiếng dương cầm như một người
đi qua khu rừng, nghĩ bằng xúc cảm.
Dàn nhạc ở trên cây, trái tim bên dưới,
từng bước một.
Đôi khi, tiếng nhạc nhanh hơn,
Nhưng rồi luôn trở lại với tĩnh lặng,
Như một người nhớ và hy vọng.
Điều đó ở trong ta, hiếm khi được để ý.
Có lẽ đó là khoái cảm trong mất mát.
Trong khao khát. Nỗi đau đi qua.
Không bao giờ trở lại.
Không bao giờ hiện hình nữa.
Không bao giờ lần nữa.
Chậm chạp. Không bụi cây. Gần ra đi.
Cái đẹp ngân nga trong tĩnh lặng.
Cái đã từng là. Từng có. Và người biết
tất cả về anh sẽ tới kết thúc.


After Love
Jak Gilbert

He is watching the music with his eyes closed.
Hearing the piano like a man moving
through the woods thinking by feeling.
The orchestra up in the trees, the heart below,
step by step. The music hurrying sometimes,
but always returning to quiet, like the man
remembering and hoping. It is a thing in us,
mostly unnoticed. There is somehow a pleasure
in the loss. In the yearning. The pain
going this way and that. Never again.
Never bodied again. Again the never.
Slowly. No undergrowth. Almost leaving.
A humming beauty in the silence.
The having been. Having had. And the man
knowing all of him will come to the end.

Tỏ tình với quên lãng

Thật khó biết thứ âm nhạc thô ráp nào
Có thể đưa quên lãng của ta trở về mặt đất
Nơi những phu đào mộ lôi nó ra từ nhiều năm trước.

Khoảnh khắc đầu tiên trong ngày chúng ta có thể lãng quên
Ngay cả khi ta thức, thế kỷ có thể trôi đi
Trong một nhịp đập của trái tim.

Ta đánh mất cuộc đời bằng lãng quên
Giống như mảnh đất bám vào rìa lưỡi cày
Và những quả trứng con gà mái bỏ rơi trong rừng.

Ta nhận một nghìn quà tặng thuở lọt lòng
Ta đánh mất hàng trăm thứ trong sự lãng quên tại khoảnh khắc sinh,
Và đánh mất thiên đường xưa ngày đầu tiên đi học.

Lãng quên giống như bông tuyết trĩu nặng cành linh sam;
Sau nhà mình, bạn sẽ thấy
Một cánh rừng trải dài hàng trăm dặm.

Robert, bạn may mắn khi nhớ những câu thơ của Rilke
Nhưng mục đích của lãng quên
Là nhớ tới lần cuối cùng chúng ta rời xa thế giới.


Courting Forgetfulness
Robert Bly

It’s hard to know what sort of rough music
Could send our forgetfulness back into the ground,
From which the gravediggers pulled it years ago.

The first moment of the day we court forgetfulness.
Even when we are fully awake, a century can
Go by in the space of a single heartbeat.

The life we lose through forgetfulness resembles
The earth that sticks to the sides of plowshares
And the eggs the hen has abandoned in the woods.

A thousand gifts were given to us in the womb.
We lost hundreds during the forgetfulness of birth,
And we lost the old heaven on the first day of school.

Forgetfulness resembles the snow that weighs down
The fir boughs; behind our house you’ll find
A forest going on for hundreds of miles.

Robert, it’s to your credit that you remember
So many lines of Rilke, but the purpose of forgetfulness
Is to remember the last time we left this world.

Cờ sao vạch

10.7.08

Quốc ca Mỹ có tên là “Lá cờ sao vạch” (The Star-Spangled Banner).

Tác giả bài thơ được phổ nhạc này là Francis Scott Key, một nhà thơ nghiệp dư. Key sáng tác bài này năm 1814, trong khi nước Mỹ đang có chiến tranh với Anh, thường gọi là Chiến tranh 1812 (dù thực tế là chiến tranh kéo dài từ 1812 tới 1815). Cuộc Chiến tranh 1812 nói chung ít được người Mỹ nhắc tới do trong cuộc chiến này, vào năm 1814 người Anh đã lần tiến vào Washington D.C. và đốt cháy Nhà Trắng và Nhà Quốc hội Mỹ để trả thù việc người Mỹ năm trước đó chiếm và đốt thành York (nay là Toronto) của Canada gồm có cả nhà Quốc hội Canada. Tuy lịch sử gọi sự kiện này là Đốt cháy Washington (Burning of Washington) nhưng thực tế thì người Anh chỉ đốt một số tòa nhà công cộng chứ không đốt nhà dân (khác với tướng Sherman đốt Georgia trong Nội chiến Mỹ sau này)

Francis Scott Key sáng tác bài thơ này vào khoảng nửa tháng sau khi Washington D.C. bị đốt, khi đang ở trên một chiến hạm của Anh trong sứ mệnh đàm phán trao đổi tù binh và chứng kiến việc người Anh tấn công Baltimore. Trận đánh pháo đài McHenry ở Baltimore diễn ra trong đêm và Francis Key thấy lá cờ trên pháo đài đang bay khi trận đánh bắt đầu nhưng ông vẫn không rõ nó còn tiếp tục bay nữa không khi trận đánh diễn ra dữ dội, khói lửa mù mịt (khổ đầu bài thơ). Đến mờ sáng hôm sau thì ông biết người Anh thất bại khi nhìn thấy trên nóc pháo đài một lá cờ lớn (kích cỡ 9*12 mét) tung bay thay cho lá cờ nhỏ trong đêm (khổ 2). Cảm kích trước cảnh tượng này, ông sáng tác bài thơ “Cờ sao vạch”. Bài thơ sau đó được phổ nhạc trên nền giai điệu từ một bài hát phổ biến trong thời gian này ở Anh có tên là Anacreontic Song do một nhạc sĩ Anh tên là John Stafford Smith sáng tác. Bài hát gốc vốn là một bài hát thuộc thể loại thường được dùng trong lúc uống rượu, gọi là drinking son. Bài hát với lời của Francis Scott Key sau đấy nhanh chóng được phổ biến rồi được chọn là quốc ca Mỹ.

Trong thế kỷ 20, khổ 3 của bài hát nói về tội ác của đế quốc Anh và lòng căm thù của nhân dân Mỹ thường không được hát do lúc này Anh đã trở thành đồng minh thân cận của Mỹ.


Cờ sao vạch

Hãy nói bạn có thấy nó trong ánh sớm bình minh
Chúng ta kiêu hãnh chào trong ánh rạng hoàng hôn
Những vạch rộng và những vì sao rạng rỡ
Xuyên qua trận đánh sinh tử
Trên những thành lũy, chúng ta ngắm
Lá cờ hiên ngang tung bay.
Giữa ánh lửa của tên đạn, giữa tiếng bom ầm vang
Chúng ta vẫn thấy lá cờ ở đấy.
Hãy nói phải chăng cờ sao vạch vẫn đang bay
Trên mảnh đất người tự do, quê hương người dũng cảm?

Trên bờ biển, xuyên qua sương khói đậm sâu
Nơi kẻ thù kiêu căng yên nghỉ trong im lặng
Và kìa cái gì đang được ngọn gió thổi tung,
Trên những triền dốc đứng, nửa che và nửa hở?
Để rồi bắt kịp tia sáng đầu của bình minh
Rạng rỡ tung bay trong vinh quang chói lọi:
‘Đó là cờ sao vạch! Mong sao cờ luôn bay
Trên mảnh đất người tự do, quê hương người dũng cảm!

đâu rồi đám cướp từng huyênh hoang thề thốt
Rằng sau những điêu tàn của chiến tranh
Sẽ chẳng còn lại gì cho ta trên quê hương, Tổ quốc!
Máu của chúng rửa vết nhơ đọng trên những dấu chân
Bầy nô lệ và lũ đánh thuê, chúng làm sao chạy thoát
Khỏi nỗi khiếp sợ trong trốn chạy, cõi âm u của nấm mồ:
Và lá cờ sao vạch sẽ tung bay trong vinh quang
Trên mảnh đất người tự do, quê hương người dũng cảm!

Khi chiến tranh kết thúc, những người tự do sẽ đứng
Giữa quê hương yêu dấu và đổ nát của chiến tranh
Với chiến thắng và hòa bình, Thượng đế cứu vớt đất nước
Hãy ngợi ca Đấng Quyền năng đã tạo và gìn giữ cho ta tổ quốc.
Chúng ta sẽ chiến thắng, khi có lẽ chính đáng,
Châm ngôn của chúng ta: ‘Niềm tin đặt nơi Thượng đế.’
Và lá cờ sao vạch sẽ tung bay trong vinh quang
Trên mảnh đất người tự do, quê hương người dũng cảm

The Star-Spangled Banner

O! say can you see by the dawn's early light
What so proudly we hailed at the twilight's last gleaming.
Whose broad stripes and bright stars through the perilous fight,
O'er the ramparts we watched were so gallantly streaming.
And the rockets' red glare, the bombs bursting in air,
Gave proof through the night that our flag was still there.
Oh, say does that star-spangled banner yet wave
O'er the land of the free and the home of the brave?

On the shore, dimly seen through the mists of the deep,
Where the foe's haughty host in dread silence reposes,
What is that which the breeze, o'er the towering steep,
As it fitfully blows, half conceals, half discloses?
Now it catches the gleam of the morning's first beam,
In full glory reflected now shines in the stream:
'Tis the star-spangled banner! Oh long may it wave
O'er the land of the free and the home of the brave!

And where is that band who so vauntingly swore
That the havoc of war and the battle's confusion,
A home and a country should leave us no more!
Their blood has washed out their foul footsteps' pollution.
No refuge could save the hireling and slave
From the terror of flight, or the gloom of the grave:
And the star-spangled banner in triumph doth wave
O'er the land of the free and the home of the brave!

O! thus be it ever, when freemen shall stand
Between their loved home and the war's desolation!
Blest with victory and peace, may the heav'n rescued land
Praise the Power that hath made and preserved us a nation.
Then conquer we must, when our cause it is just,
And this be our motto: 'In God is our trust.'
And the star-spangled banner in triumph shall wave
O'er the land of the free and the home of the brave!

Nếu anh có thể nói với em

6.7.08

Thời gian sẽ không nói gì nhưng anh đã nhắc em
Thời gian chỉ biết cái giá chúng ta phải trả
Nếu anh có thể nói với em, anh sẽ cho em biết.

Chúng ta có khóc khi các anh hề diễn trò vui,
Chúng ta có vấp khi các nhạc công chơi nhạc,
Thời gian sẽ không nói gì nhưng anh đã nhắc em

Không có tương lai nào được báo trước,
Dù anh yêu em nhiều hơn những gì anh nói
Nếu anh có thể nói với em, anh sẽ cho em biết.

Những ngọn gió đến từ đâu khi chúng thổi
Lý do nào khiến những chiếc lá úa tàn
Thời gian sẽ không nói gì nhưng anh đã nhắc em

Có thể những bông hồng thực sự muốn lớn lên,
Và ánh nhìn thực lòng mong ở lại
Nếu anh có thể nói với em, anh sẽ cho em biết.

Nếu tất cả lũ sư tử đều đứng dậy và ra đi
Nếu những dòng suối và những người lính đều bỏ đi xa
Thời gian nói điều gì anh chưa nói em nghe?
Nếu anh có thể nói với em, anh sẽ cho em biết

If I could tell you

Time will say nothing but I told you so,
Time only knows the price we have to pay;
If I could tell you I would let you know.

If we should weep when clowns put on their show,
If we should stumble when musicians play,
Time will say nothing but I told you so.

There are no fortunes to be told, although,
Because I love you more than I can say,
If I could tell you I would let you know.

The winds must come from somewhere when they blow,
There must be reasons why the leaves decay;
Time will say nothing but I told you so.

Perhaps the roses really want to grow,
The vision seriously intends to stay;
If I could tell you I would let you know.

Suppose all the lions get up and go,
And all the brooks and soldiers run away;
Will Time say nothing but I told you so?
If I could tell you I would let you know.

 
Vũ Hoàng Linh - by Templates para novo blogger